Skip Ribbon Commands
Skip to main content

KHUNG QUẢN TRỊ VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM TRONG KHAI THÁC CÁT SÔNG Ở MYANMAR


Xây dựng khung quản trị và theo dõi hoạt động trái phép

Theo Điều 13, Chương V, Luật Bảo tồn Tài nguyên Nước và Sông ngòi ban hành năm 2006, “không ai được tiến hành hút cát, nạo vét cát, đào cát, hút đá cuội sông, đãi vàng, nạo vét sa khoáng vàng hoặc khai thác tài nguyên vì mục đích thương mại trong ranh giới lòng sông, bờ sông, bãi sông khi chưa được Tổng cục (Tài nguyên Nước và Cải tạo Hệ thống Sông) đề xuất”. Tương tự, Điều 14 quy định “không ai được tiến hành hút cát, nạo vét cát, đào cát, hút đá cuội sông, đãi vàng, nạo vét sa khoáng vàng hoặc khai thác tài nguyên từ bãi cát được duy trì cho công trình chỉnh trị sông theo quy định, hoặc các vùng cấm trên sông và lạch sông”.

Luật năm 2006 mong muốn (a) bảo tồn và bảo về tài nguyên nước và hệ thống sông ngòi vì lợi ích công; (b) đảm bảo giao thông đường thủy thuận lợi và an toàn dọc theo sông và lạch; (c) góp phần vào sự phát triển kinh tế quốc gia thông qua cải thiện nguồn nước và hệ thống sông ngòi; (d) bảo vệ môi trường khỏi các tác động tiêu cực.

Cát được coi là tài nguyên thiên nhiên, thuộc sở hữu của nhà nước. Do đó, theo Điều 37 của Hiến pháp Myanmar năm 2008, liên bang là chủ sở hữu cuối cùng của tất cả đất đai và tài nguyên thiên nhiên nằm cả trên và dưới mặt đất, trên và dưới mặt nước, trong bầu khí quyển của quốc gia. Vì vậy, liên bang có thể ban hành luật cần thiết để giám sát việc khai thác và sử dụng tài nguyên thiên nhiên thuộc sở hữu nhà nước.

Năm 2012, Myanmar soạn thảo Luật Bảo tồn Môi trường nhằm cung cấp các hướng dẫn quản lý tạm thời cho các ngành công nghiệp. Nhờ hỗ trợ của Chương trình Phát triển Liên Hợp Quốc (UNEP), Bộ Tài nguyên & Bảo tồn Môi trường đã soạn thảo và ban hành Chính sách Môi trường Quốc gia năm 2019.

Cơ sở pháp lý để thực hiện đánh giá tác động môi trường (EIAs) dựa trên Luật Bảo tồn Môi trường năm 2012 với các quy định theo sau lần lượt là Quy tắc Bảo tồn Môi trường (2014) và Quy trình Đánh giá Tác động Môi trường (2015). Một công cụ chính sách khác hỗ trợ đánh giá EIA của các dự án là Hướng dẫn Chất lượng Môi trường Quốc gia (NEQG), được thông qua năm 2015. Cơ quan tiến hành EIA phải xem xét kỹ lưỡng các đề xuất dự án, đặc biệt, soi chiếu xem kế hoạch của các dự án này có tuân thủ NEQG hay không. Xem xét này bao gồm cả các hướng dẫn giới hạn tối đa chất gây ô nhiễm chung và chất gây ô nhiễm cụ thể theo ngành đối với khí phát thải và các xả thải cũng như giới hạn tiếng ồn và giới hạn phơi nhiễm đối với các hoạt động truyền tải. Tất cả các tiêu chí này đã được áp dụng hợp lệ cho các dự án, chẳng hạn các dự án do Ngân hàng Thế giới (WB) tài trợ.

Tổng cục Tài nguyên Nước & Cải tạo Sông (DWIR), thuộc Bộ Giao thông Vận tải, chịu trách nhiệm giám sát hoạt động khai thác cát như là một trong những nghĩa vụ của tổng cục đối với chỉnh trị và điều hướng sông ngòi. Cùng với Sở Hành chính Tổng hợp (GAD), DWIR cấp và gia hạn giấy phép khai thác. Mặc dù các luật này và các quy định liên quan có vẻ được cấu trúc tốt, nhiều hoạt động khai thác vẫn tiếp tục diễn ra mà không có EIA và giấy phép khai thác. Ví dụ, chỉ một đến hai trong tổng số hơn 20 nhà máy xi măng trên cả nước có giấy phép khai thác cần thiết theo quy định.

Thủ tục và quy định cấp phép

Đơn xin cấp phép khai thác được nộp ở cấp thị xã. Sau đó, Tổng cục Tài nguyên Nước & Cải tạo Sông (DWIR) tiến hành khảo sát thủy văn và đưa ra các khuyến nghị về việc có nên cấp giấy phép hay không.

Thực tế là, thủ tục và cách thức cấp phép không theo một quy định thống nhất nào dường như vẫn xảy ra ở các bang và khu vực. Theo như báo cáo, ở một số khu vực, ngoài phí sản xuất và thuế, các nhà quản lý thị trấn và phường đã yêu cầu các đơn vị khai thác phải đóng góp cho các dự án trường học hoặc đường xá. Ở một số khu vực khác, có thông tin trên phương tiện truyền thông rằng Sở Hành chính Tổng hợp (GAD) bán giấy phép khai thác cho người trả giá cao nhất.

Giám sát mức độ tuân thủ và theo dõi hoạt động trái phép

Tổng cục Tài nguyên Nước & Cải tạo Sông (DWIR) cấp tiểu bang và cấp khu vực có trách nhiệm giám sát tuân thủ cấp phép. Các đội bao gồm các quan chức từ DWIR, GAD và Lực lượng Cảnh sát Myanmar tuần tra trên sông ba hoặc bốn lần một tháng trong mùa khô. Bất kỳ ai có hành vi khai thác không giấy phép đều có thể bị phạt theo Luật Bảo tồn Tài nguyên Nước & Sông ngòi năm 2006. Chính sách này được báo cáo là không hiệu quả trong thực tế. Vấn đề chính có thể không phải khai thác không phép, mà là hoạt động khai thác cát của các đơn vị khai thác được cấp phép vượt quá tổng lượng khai thác cho phép. Thách thức không dễ được giám sát bởi sức ép chủ yếu đến từ các khiếu nại của cộng đồng, bộ phần xã hội vốn không có quyền lực thực sự.

Bài học chính

Thực hành tốt

  • Cát, theo hiến pháp, là tài nguyên thiên nhiên, thuộc sở hữu nhà nước.
  • Luật Bảo tồn Tài nguyên Nước và Luật Bảo tồn Môi trường được thực thi và yêu cầu bắt buộc phải có EIA.
  • DWIR và GAD có thẩm quyền cấp giấy phép.
  • Luật pháp cho phép bán đấu giá các khối cốt liệu.

Mặt cần cải thiện

  • Quy chế không hiệu quả khi thực hiện ở địa phương; giấy phép môi trường thường chỉ được cấp khi hoạt động khai thác đã được tiến hành trong nhiều năm.
  • Với rất nhiều bộ và cơ quan quản lý, có thể có sự miễn cưỡng trong việc cấp giấy phép do nỗi sợ bị buộc tội ăn hối lộ hoặc sợ làm mất lòng một cơ quan quản lý khác.
  • Điều kiện cấp phép rất khác nhau và thường bị trì hoãn ở cấp thị trấn; các thực hành cấp phép khác nhau ở từng tiểu bang và khu vực. Ở một số khu vực, theo báo cáo, ngoài phí sản xuất và thuế, một số đơn vị quản lý thị trấn và phường còn yêu cầu đơn vị khai thác đóng góp cho các dự án trường học hoặc đường xá. Ở một số khu vực khác, đã có thông tin trên phương tiện truyền thông rằng GAD bán giấy phép khai thác cho người trả giá cao nhất.
  • Thực hiện tuân thủ theo chính sách và hoạt động của đội tuần tra không hiệu quả; tuần tra của thanh tra viên tổ chức không thường xuyên và không diễn ra suốt mùa mưa khi các tuyến đường thủy chính mở cửa.

Nguyễn Thị Quỳnh Giao